Ai Đẻ Ra “Tập Cận Bình”
Nghị sĩ Hoàng Hữu Phước phiếm luận về “Hội Chứng Vàng” ở Việt Nam
Hoàng Hữu Phước, MIB
Tôi là người cẩn trọng – nói theo kiểu nhún nhường. Còn nói theo kiểu nhún nhảy nhún nhót thì tôi chưa hề thấy có bất kỳ người Việt Nam nào cẩn trọng như tôi hoặc hơn tôi. Vì cẩn trọng nên tôi chưa hề thua bất kỳ ai về hùng biện, kể cả cái chuyện cho rằng bọn quà quạ kền kền đã làm tôi phải viết cái gọi là “thư xin lỗi” [1] trong vụ “Tứ Đại Ngu” cũng chỉ là “myth” tức “chuyện hoang đường” tức đòn chơi khăm của tôi mà thôi. Đó là lý do tôi ngạo nghễ ngạo mạn duy trì cái tác phẩm bức thư xin lỗi ấy trong blog của tôi. Và chính vì cẩn trọng nên mới có 3 đoạn giải thích sau cho bài viết này:
a) Nhóm từ “Tập Cận Bình” bỏ trong ngoặc kép, do đó đây không phải về một thẳng người ngợm Tàu nào mang tên Tập Cận Bình vì ai mà không biết nó được đẻ ra từ đâu. Suy ra, nó không bao giờ có thể cự nự sao vô cớ mà mẹ nó bị tôi lôi ra hành hạ; và nếu nó có kiện tôi ra tòa án quốc tế về tội thóa mạ nhục mạ lăng mạ thì tôi sẽ hân hoan đi hầu cho thiên hạ thế giới mở rộng tầm mắt biết thế nào là lễ độ với tay biện thuyết Việt Nam.
b) Chính vì là “nhóm từ” nên bài này chỉ phê phán kẻ đẻ ra “Tập Cận Bình” chứ không phải kẻ đẻ ra thằng Tàu nào có tên Tập Cận Binh.
c) Đã là bịnh mà là bịnh hiếm, mang đậm chất tâm thần thời hiện đại thì hay được gán ghép với chữ syndrome của tiếng Anh nên mới có tiếng Việt là “hội chứng”. Còn “vàng” thì chẳng dính dáng đến SJC hay PNJ vì ở đây chỉ muốn ám chỉ “sự trân trọng thái quá mang tính bịnh lý chư hầu”.
Phàm trong thế giới hàn lâm có 7 quy chuẩn mặc định bất thành văn như sau về việc sử dụng tên riêng ngoại quốc trong tiếng nước mình:
1- Lập lại nguyên văn khởi thủy, và nếu thuộc loại mẫu tự đặc thù (Nga, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, v.v., và các chữ tượng hình như Nhật, Hàn, Ả, Tàu, v.v.) không hợp với bàn phím mẫu tự gọi là an-pha-bê chung nhất của nhân loại để cùng chung sống hòa bình trong cùng một bài viết trong một tác phẩm hay tờ báo thì cứ xem tiếng Anh viết sao thì sử dụng y như vậy. Thí dụ anh hùng tình báo kiệt xuất của Liên Xô trong Đệ Nhị Thế Chiến là Николай Иванович Кузнецов người mà nhân loại đã, đang, và sẽ phải mõi mòn chờ đợi đến năm 2025 mới được tiếp cận tài liệu tối mật và đầy đủ về Ông, thì Việt Nam ta cứ dùng cách viết tiếng Anh là Nikolai Ivanovich Kuznetsov hoặc gọi tắt là Kuznetsov trong tiếng của ta.
2- Lập lại nguyên văn khởi thủy, và nếu thuộc loại mẫu tự như Tiếng Việt rất hợp với bàn phím mẫu tự gọi là an-pha-bê chung nhất của nhân loại để cùng chung sống hòa bình trong cùng một bài viết trong một tác phẩm hay tờ báo thì cứ việc loại bỏ hết các dấu sắc-huyền-hỏi-ngã-nặng vì các dấu này không có trong cái chung nhất ấy. Thí dụ Hồ Chí Minh thì nước ngoài cứ viết Ho Chi Minh trong tiếng của họ.
3- Cách bình dân nhất tại quốc gia nào chưa cho là mình đã xóa nạn mù chữ, có các chương trình cải cách giáo dục liên tục gần nửa thế kỷ mà người học tiếng Anh vẫn không thể nói và viết (thiên hạ ở Việt Nam than thở hoàn toàn sai rằng sinh viên tốt nghiệp ban Anh Văn không nói được tiếng Anh, thật ra họ không nói được và không viết được, mà viết là quan trọng nhất) được dù có hàng triệu cơ sở dạy tiếng Anh, có bao phương tiện học tiếng Anh, v.v. và v.v., thì cách thứ phẩm là Việt hóa phiên âm tên nước ngoài. Thí dụ anh hùng tình báo Liên Xô trong Đệ Nhị Thế Chiến là Николай Иванович Кузнецов người mà nhân loại đã, đang, và sẽ phải mõi mòn chờ đợi đến năm 2025 mới được tiếp cận tài liệu tối mật và đầy đủ về Ông, thì Việt Nam cứ vô tư đổi thành Cu Dơ Nhét Xốp [2].
4- Trường hợp hồi xửa hồi xưa người Việt ít người theo đuổi Tây học đến nơi đến chốn nên khinh khi gọi cách của điều 3 là nhà quê, và e thẹn né dùng cách của điều 1 vì sẽ bị dân chúng nhạo là mất gốc, cái gì cũng xổ tiếng Tây, nên dĩ hòa di quý, nghía xem mấy thằng bên Tàu gọi là gì thì mình cứ thế mà Hán-Việt đề huề cho xong. Thí dụ Montesquieu thì sợ bị quê nếu gọi là Mông Tét Kỳ Ơ, nên nghe Chệt bảo 孟德斯鳩 thì hí hửng nhại theo thành Mạnh Đức Tư Cưu.
5- Khi cực chẳng đã buộc phải bó tay không áp dụng được 4 chuẩn trên thì vẫn phải biến hóa làm sao cho tên mới trong tiếng nước mình phải có âm trùng với âm khởi thủy. Thí dụ Beijing – Peking – Bắc Kinh.
6- Khi cực chẳng đã buộc phải bó tay không áp dụng được 5 chuẩn trên, chẳng hạn do tên hoặc ngắn ngủn quá hoặc dài thườn thượt quá như The United States of America rất dễ đánh máy nhầm khi theo điều 1, tự ái dân tộc nếu theo điều 4, còn theo điều 3 thì quê khủng khiếp (thí dụ: đã đảo đế quốc Dờ Du Nai Tít Sờ Tết Ốp A Mê Ri Ka), trong khi điều 5 cũng bất khả thi (thí dụ: tổng thống nước Du Nam Tích Sơn Tất Ô Ái Mễ Trí Ca), thì có thể tùy ý đặt tên dựa theo một vật thể (lá cờ có nhiều sao = lá cờ như nở hoa = nước Hoa Kỳ) hay một sự thán phục dành riêng (nước này đẹp quá xá = nước Mỹ) [3].
7- Nhưng gì thì gì, tuyệt đối cấm dịch tên tiếng nước ngoài ra tiếng nước mình. Với tên lãnh tụ Hồ Chí Minh, thế giới không được phép gọi thành Mr Bright hay Mr Morning hay Mr Dawn hay Mr Smart trong tiếng Anh. Với tên quốc gia Ivory Coast, Việt Nam không được phép gọi là Bờ Biển Ngà trong tiếng Việt. Nếu Ivory Coast (tức Côte D’Ivoire) biết Việt Nam vi phạm điều này, bạn nghĩ sao nếu họ cũng vi phạm và gọi Việt Nam là Viet South hay South Viet?
Từ những điều rất hàn lâm, rất đơn giản, rất dễ hiểu, rất dễ nhớ nêu trên, ta thấy những hợp lý sau đối với tên riêng của mấy anh Tàu, trên nền mặc định rằng người Anh lắng nghe âm phát của tiếng Tàu rồi ghi lại bằng tiếng Anh, nên ta lấy tiếng Anh làm đối tượng để so ra Tiếng Việt:
1) Nhóm hơi hợp lý vì có ít nhất 2 âm trong tổng 3 âm nghe giống trong 2 thứ tiếng Anh và Việt (lẽ ra là 3 vì đã mặc định tiếng Anh ghi lại đúng âm phát ra từ tiếng Tàu):
Zhou Enlai – Chu Ân Lai
Deng Xiaoping – Đặng Tiểu Bình
Deng Yingchao – Đặng Dĩnh Siêu
Hua Guofeng – Hoa Quốc Phong
Hu Yaobang – Hồ Diệu Bang
Liu Shaoqi – Lưu Thiếu Kỳ
Mao Zedong – Mao Trạch Đông
Tên gọi bằng tiếng Việt như liệt kê ở trên cho thấy sự manh nha của “hội chứng vàng” nghĩa là tên tiếng Việt của các lãnh đạo “anh em” Tàu vĩ đại phải được thể hiện sao cho thật đẹp thật quý như “vàng”, và trên cơ sở quy chuẩn hàn lâm quốc tế cũng như nhóm hợp lý cho thấy đã tuân thủ tuyệt đối điểm 7 tức là không được dịch thuật ra tiếng nước mình, ta thấy có ai đó đã đẻ ra các tên trên bằng cách gán cho chúng những từ tuyệt đẹp của tiếng Việt, thay thế cho “nguyên tác” Du Ển Lai nghe ỏn ẻn cà ển cà ển quá, Đen Xạo Bình nghe đen đủi xạo xự quá, Được Dính Chấu nghe xui xẻo quá, Hứa Gô Phéng nghe giống như hứa lèo rồi chuồn (go = đi) vì quên (phéng) trả nợ quá, Hù Dáo Bang nghe cứ như dân ăn xin nhìn dáo dác khi bị hù quá, Líu Xạo Kỳ thì đúng là nói xạo kỳ quá đến líu lưỡi, và Mao Dê Đồng nghe cứ như là lông mao cứng của loài dê thua xa dê núi vậy.
2) Nhóm bất hợp lý vì chỉ có 1 âm trong tổng 3 âm nghe giống trong 2 thứ tiếng Anh và Việt :
Li Xiannian – Lý Tiên Niệm ( Li # Lý)
Jia Quinlin – Giả Khánh Lâm (Jia # Giả)
Yu Zhengsheng – Du Chính Thanh (Yu # Du)
Jiang Zemin – Giang Trạch Dân (Jiang # Giang)
Hu Zintao – Hồ Cẩm Đào (Hu # Ho)
Chen Duxin – Trần Độc Tú (Chen # Tran)
Ye Jianying – Diệp Kiếm Anh (Ye # Diệp)
Zhao Ziyang – Triệu Tử Dương (yang # Dương)
Khi Hội Chứng Vàng ở mức trầm trong, người ta bỏ luôn sự hóa trang cần thiết, khiến sáng tạo tên gọi chỉ cần có 1 âm giống cho mỗi tổ hợp tên có tổng 3 âm, thí dụ ở trên như Yu Zhengsheng thành Du Chính Thanh chỉ cần giống tương tự (#) mỗi chữ Yu với chữ Du.
Cũng vì vậy mà phát sinh vấn nạn lịch sử ngôn ngữ học Việt Nam: ai đẻ ra “Tập Cận Bình”?
Trong tiếng Anh, thằng Tàu đang khua môi múa mép muốn thôn tính Việt Nam có tên Xi Jinping. Nếu gọi hắn bằng tên tiếng Anh thì Xi Jinping chẳng có gì đáng bàn, vì theo đúng chuẩn 1. Nhưng nếu tự nhận Việt Nam là quốc gia dạy tiếng Anh trật lất và người Việt không ai muốn học tiếng Anh còn nước Việt tất cả các trung tâm ngoại ngữ đều vắng hơn Chùa Bà Đanh thì có thể Việt Hóa Phiên Âm thành Xí Dính Bùn hay Xì Dô Bình (tức Xịt Vô Bình). Đó mới là Tiếng Việt của tên mẹ đẻ của vị lãnh đạo Trung Quốc hiện nay. Còn “Tập Cận Bình” là tên của đứa vớ vẩn nào?
Tàu gởi cho mười sáu chữ. Và Hội Chứng Vàng đã khiến xảy ra việc gắn vô thêm chữ “vàng” cho báu, thành “mười sáu chữ vàng”.
Máu Dê Đồng biến thành Mao Trạch Đông cho thêm “quý”.
Xì Dính Bùn biến thành Tập Cận Bình cho thêm “báu”.
Hỡi các vị uyên thâm tháp ngà, tiếng Việt ta rất quý và rất báu. Đừng tự tung tự tác tự tiện tự ý đem gắn lên mình loài cẩu trệ.
Nếu còn có tự ái dân tộc, hãy dùng tiếng Anh của tên gọi bọn Tàu, để tự an ủi rằng người Việt ta đây đâu thèm bận tâm phí thì giờ viết tên chúng ra bằng tiếng Việt. Mà nếu dùng tiếng Việt thì phải cư xử công bằng, lẽ nào anh hùng Liên Xô Kyznetsov thì vô tư Cu Dơ Nhét Xốp thay vì nên là … Quốc Nhã Xuân, còn tên giặc Tàu Xi Jinping thì biến hóa thành Tập Cận Bình thay vì nên là Xì Dính Bùn? Đạo lý thuần Việt đâu có cho phép như thế.
Các thắc mắc và cần tư vấn về tên gọi trong đối ngoại bảo đảm tính hàn lâm quốc tế, ngữ nghĩa tu từ và đạo lý nhân luân Đại Việt Nam, xin liên lạc với
Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế
Ghi chú:
[1] Hoàng Hữu Phước. 19-02-2013. ĐB Hoàng Hữu Phước xin lỗi ĐB Dương Trung Quốc
[2] Hoàng Hữu Phước. 31-8-2011. Cu Dơ Nhét Xốp – Vấn Nạn Việt Hóa Phiên Âm Tiếng Nước Ngoài
[3] Hoàng Hữu Phước. 18-6-2010. Tham luận: Giao Thoa Ngôn Ngữ Việt-Anh Và Thực Chất Vấn Đề Giữ Gìn Sự Trong Sáng Của Tiếng Việt