Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2015

Kỷ niệm 40 năm ngày chiến thắng Rạch Gò (07/4/1972 - 07/4/2012): LLVT SÓC TRĂNG VỚI CHIẾN THẮNG RẠCH GÒ

(29/07/2012)

Bốn mươi năm đã trôi qua, nhưng âm vang và ý nghĩa lịch sử trận Rạch Gò vẫn luôn luôn sống trong ký ức các thế hệ quân dân trên quê hương Sóc Trăng anh hùng.

Các đại biểu tham gia lễ kỷ niệm

Năm 1971, cùng với toàn miền, đồng bào, cán bộ, chiến sỹ các LLVT Sóc Trăng đã anh dũng kiên cường, tập trung sức lực và trí tuệ giáng cho quân xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai những đòn choáng váng, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân vào thắng lợi tất yếu của sự nghiệp cách mạng.

Bước vào đầu năm 1972, ở tiểu khu Ba Xuyên, địch tăng cường quy mô bắt lính đôn quân, mở rộng đồn bót, ra sức xiết chặt hệ thống kềm kẹp đối với nhân dân trong vùng chúng kiểm soát nhằm đối phó lại các hoạt động của ta. Chúng ráo riết triển khai kế hoạch “Tứ niên cộng đồng phát triển địa phương” với âm mưu tập trung xây dựng lực lượng bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, củng cố bộ máy tề xã, ấp vững chắc làm công cụ bạo lực cho kế hoạch bình định, càn quét, triệt phá hạ tầng cơ sở cách mạng, hòng triệt tiêu hoàn toàn các lực lượng của ta.

Ngay từ đầu năm, địch đã ồ ạt triển khai chiến lược “Khai quang” bằng các tên gọi “Đại phong”, “Đồng khởi”, “Sao hôm”, tập trung lực lượng càn quét, triệt phá địa hình các nơi trong tỉnh như rừng lá thuộc các xã Gia Hoà, Thạnh Phú, Mỹ Qưới ở huyện Mỹ Xuyên, rừng tràm ở Mỹ Phước. Chúng tăng cường bắt lính, vơ vét lúa gạo, tài sản, tiền bạc… Ở vùng kềm, vùng ven thị xã, thị trấn địch liên tục thực hiện những cuộc càn quét, đóng đồn bót dày đặc nhằm đàn áp, uy hiếp phong trào cách mạng và ngăn chặn ta xây dựng, phát triển lực lượng ở địa bàn.


Để đối phó kịp thời với những âm mưu, thủ đoạn mới của địch, tháng 1/1972, Ban chấp hành Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị mở rộng, triển khai quán triệt Chỉ thị số 13 của trung ương Cục, Nghị quyết 26 của Khu ủy. Hội nghị đã nghiêm túc đánh giá, kiểm điểm những thành công, hạn chế của năm 1971 và xác định phương hướng nhiệm vụ của tỉnh năm 1972. Tỉnh ủy chủ trương:


“Động viên nỗ lực vượt bậc, Đảng bộ, quân dân trong tỉnh phát huy cao độ thành quả đã đạt được, khẩn trương, quyết tâm khắc phục khó khăn, nhược điểm còn tồn tại. Tranh thủ thời cơ thuận lợi, đẩy mạnh “ Ba mũi giáp công” với tư tưởng tiến công, tinh thần tự lực tự cường, quyết chiến quyết thắng. Kịp thời chuyển cao trào tiến công và nổi dậy đồng loạt, đánh cho ngụy quân, ngụy quyền sụp đổ một bước mới, giành thắng lợi lớn nhất nhằm làm thất bại cơ bản kế hoạch bình định, chiến lược “ Việt nam hoá chiến tranh” của địch… Trên cơ sở đó, làm cơ sở so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch một cách rõ nét, nhất là ở vùng nông thôn, vùng kềm mới, tạo bước chuyển biến cơ bản trên chiến trường trong tỉnh”.

Ngày 8/3/1972, tại Sóc Trăng, địch mở chiến dịch “Đại phong” nhằm triệt phá các khu căn cứ của ta. Tại rừng tràm Mỹ Phước, địch sử dụng 5 Tiểu đoàn của 2 sư: 9 và 21, quân số trên 2.000 tên, 20 pháo 105 ly kết hợp máy bay ném bom hạng nặng tấn công cơ quan đầu não kháng chiến của tỉnh. Chúng dùng vũ lực bắt hàng ngàn dân tập trung về đây để chặt phá, thực hiện khai quang rừng tràm .

Trước tình hình đó, thực hiện NQ của Tỉnh uỷ, đồng thời để chia lửa với Mỹ Phước, phân tán lực lượng địch ra nhiều hướng. Tỉnh uỷ triển khai lực lượng đánh địch trên các trọng điểm gồm: Hồng Dân Phước Long; Mỹ Xuyên, Châu Thành, Vĩnh Châu. Riêng ở vùng trọng điểm Mỹ Xuyên, Tỉnh uỷ phân công đồng chí Ngô Văn Tảo (Năm Nhẫn) Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ, Tỉnh đội trưởng trực tiếp chỉ huy. Nghiên cứu tình hình bố trí lực lượng địch trên địa bàn Mỹ Xuyên, Tỉnh đội quyết định lấy Phân chi khu Rạch Gò thuộc Liên đội 87 ngụy do tên đại uý Đốt chỉ huy làm mục tiêu tấn công, mở màn cho chiến dịch. Vì đây là Ban chỉ huy của Liên đội 87, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, là trung tâm chỉ huy và điều hành toàn bộ hệ thống đồn bót trong khu vực Hoà Tú và Gia Hoà, nếu ta tiêu diệt được phân chi khu này, buộc địch phải tăng cường lưc lượng để cứu viện, đồng thời chiến thắng Rạch Gò càng tạo điều kiện để quân và dân huyện Mỹ Xuyên nổi dậy bức rút đồn bót địch, phá ấp phá kềm, giải phóng nông thôn.

Sau 1 tuần trinh sát nắm tình hình, nhận thấy về phía địch bố trí phòng thủ kiên cố, ở tứ giác có 4 lô cốt, Sở chỉ huy Liên đội ở ngay lô cốt số 1, khu tam giác gồm 3 lô cốt có Ban chỉ huy đại đội bảo an, ngoài ra còn có bọn Hội đồng xã, cảnh sát, bình định. Tổng số lực lượng khoảng trên dưới 200 tên, được trang bị 1 khẩu cối 81, 1 khẩu 12,7 ly, 2 khẩu đại liên . Về vật cản, xung quanh phân chi khu địch bố trí 3 hàng rào thép gai và mìn chống bộ binh, riêng phía nam giáp sông Nhu Gia địch không bố trí hàng rào vì luôn có 2 chiếc tàu tuần tiễu có trang bị súng máy 12,7 ly, hoạt động liên tục. Căn cứ vào mục tiêu, đối tượng tác chiến và khả năng của ta, lực lượng tổng cộng khoảng 50 đồng chí, trang bị 2 khẩu B40, tiểu liên và thủ pháo. Do vậy Ban chỉ huy tỉnh đội quyết định chỉ dùng cách đánh đặc công, bí mật luồn sâu tiếp cận mục tiêu, bất ngờ nổ súng tiêu diệt địch mới giành được thắng lợi. Sau khi nghiên cứu, Ban chỉ huy Tỉnh đội quyết định giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn Phú Lợi do đồng chí Trần Công Luận (tên thường gọi là Tư Minh) tiểu đoàn trưởng trực tiếp chỉ huy, lực lượng tham gia gồm đại đội 71, được tăng cường 4 đồng chí trinh sát tỉnh do đồng chí Năm Tường, đại đội trưởng chỉ huy, đây là mũi chủ công có nhiệm vụ mở màn trận đánh tiêu diệt khu tứ giác và sở chỉ huy Liên đội 87. Đại đội 74 do đồng chí Chương đại đội trưởng chỉ huy, có nhiệm vụ tiêu diệt đại đội bảo an ở khu tam giác, ngoài lực lượng của tiểu đoàn, tỉnh tăng cường đại đội 603 đặc công có nhiệm vụ lợi dụng sông Nhu Gia, bí mật cơ động , bố trí lực lượng phía nam phân chi khu sẵn sàng đánh địch chi viên bằng đường sông lên phân chi khu. Ngoài ra, Tỉnh đội bố trí một bộ phận của c76 trang bị B40 và phi lôi tiễn bố trí cách phân chi khu 500 mét về phía nam, sẵn sàng đánh 2 chiếc tàu tuần tiễu của địch. Phương án chiến đấu do đồng chí Năm Nhẫn trực tiếp thông qua và được Khu chấp nhận. Sau khi thông qua Khu, đồng chí Năm Nhẫn chỉ đạo đồng chí Tư Minh trực tiếp tổ chức trinh sát lần cuối, giao nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể cho các đơn vị, hạ quyết tâm chiến đấu.

20 giờ 30 ngày 06/04/1972, mệnh lệnh hành quân được phát ra, toàn bộ tiểu đoàn rời khỏi khu tập kết nhanh chóng, bí mật hành quân tới khu vực triển khai đội hình chiến đấu. Đêm tối, đồng ruộng vào mùa khô nên việc hành quân của đơn vị tương đối thuận lợi đến 24 giờ các đơn vị và BCH tỉnh đội, tiểu đoàn đã có mặt tại khu vực triển khai đội hình chiến đấu.

Đến 02 giờ ngày 07/4, mũi chủ công do đồng chí Năm Tường đại đội trưởng 71 chỉ huy, đã tiếp cận lô cốt số 1 SCH Liên đội 87, đại đội 74 đã tiếp cận mục tiêu khu tam giác. 03giờ ngày 07/4, các mũi tấn công đã áp sát các mục tiêu quy định. Đúng 04 giờ, khi trăng nhú lên, tại lô cốt số 1, nơi SCH Liên đội 87 đã hoàn toàn sụp đổ sau tiếng nổ của cặp thủ pháo của đồng chí Năm Tường. Sau hiệu lệnh, các mũi của đại đội 71, đại đội 74 nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu khu tứ giác và tam giác. Bị đánh quá bất ngờ, địch không kịp trở tay, 2 tàu tuần tiễu không dám cơ động đến cứu viện. Chỉ trong 10 phút chiến đấu, phân chi khu Rạch Gò bị phá huỷ, toàn bộ BCH liên đội 87 và đại đội bảo an bị tiêu diệt và bắt sống trong đó có tên Thiếu tá Trì thay cho tên Đốt bị tiêu diệt.

Kết quả trận đánh ta tiêu diệt hoàn toàn Ban chỉ huy Liên đội 87, 1 đại đội bảo an, 1 tiểu đội cảnh sát và toàn bộ bọn tề xã, thu trên 200 khẩu súng các loại, trong đó có 1 khẩu 12,7 ly, 1 cối 81 ly, 1 đại liên và nhiều phương tiện thông tin liên lạc. Ta bị thương 1 đồng chí.

Kết thúc trận đánh, các đơn vị phối hợp cùng lực lượng địa phương quân huyện Mỹ Xuyên và dân quân du kích nhanh chóng thu dọn chiến trường, rời khỏi trận địa, sẵn sàng đánh địch tăng viện.

Đúng như nhận định của ta, sau thất bại nặng nề của phân chi khu Rạch Gò, địch củng cố lực lượng, phương tiện, cấp tốc điều tiểu đoàn 408 về tăng viện. Ngày 14/4/1972, sau khi rút từ rừng tràm Mỹ Phước về tăng viện cho Rạch Gò, tiểu đoàn bảo an 408 ngụy tạm dừng tại nghĩa trang Hoà Phuông. BCH Tỉnh đội giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn Phú Lợi và Đại đội 368 vận động tập kích, tiêu diệt địch. Phát huy khí thế chiến thắng Rạch Gò, toàn đơn vị nhanh chóng trinh sát và lên phương án chiến đấu. Đại đội 71 đảm nhiệm mũi chủ yếu đánh chính diện vào đội hình địch, đại đội 74 đánh từ hướng đông nam, đại đội 75 từ tây bắc đánh xuống, đại đội 368 do đồng chí Tư La, đại đội trưởng chỉ huy, từ hướng đông đánh lên. 23 giờ ngày 14/4, các mũi tấn công đã triển khai xong đội hình. Đúng 24 giờ, mũi chủ yếu nổ súng mở màn trận đánh, các mũi tấn công đồng loạt xung phong đánh chiếm mục tiêu. Bị bất ngờ, địch chống cực yếu ớt rồi tháo chạy, sau 15 phút chiến đấu, ta làm chủ hoàn toàn trận địa.

Kết quả, ta diệt gọn Ban chỉ huy tiểu đoàn 408, 1 đại đội bảo an, 2 đại đội khác bị thiệt hại nặng, bắt sống 34 tên, thu hàng trăm súng các loại trong đó có 1 khẩu 12,7 ly. Ta không có thương vong.

Sau thất bại thảm hại của tiểu đoàn 408, tại Sóc Trăng địch không còn đủ sức để cứu vãn tình thế nên buộc địch phải điều tiểu đoàn 422 từ Cà Mau về can viện. Nhận định đây là lực lượng được trang bị hoả lực mạnh, công sự vật cản dù hành quân dã ngoại nhưng địch cũng triển khai rất kiên cố. Muốn đánh được, ta phải kéo địch theo đúng ý định của ta. Tiểu đoàn Phú Lợi phối hợp cùng địa phương quân và du kích địa phương tổ chức một bộ phận nhỏ chặn đánh địch, sau đó rút quân làm cho địch bị cuốn theo ý đồ của ta, tới ấp Hoà Trung thì địch co cụm lại, đúng như phương án ta đã xác định. Tiểu đoàn Phú Lợi được tăng cường đại đội 368 và một bộ phận của c 602 cùng du kích địa phương tập kích tiêu diệt địch. Đại đội 71 đánh chính diện vào Ban chỉ huy tiểu đoàn địch, đại đội 75 đánh từ hướng bắc xuống, đại đội 74 đánh từ hướng tây nam lên, riêng đại đội 368 được tăng cường 1 tiểu đội của 602 và du kích địa phương đánh từ hướng đông vào. 24 giờ 30, bộ phận đi đầu của đại đội 368 bị lộ do vướng mìn, không để địch chiếm thế chủ động, đơn vị đồng loại nổ súng xung phong. Đại đội 71 và 75 đánh chiếm mục tiêu đã xác định , đại đội 368 dũng mãnh xông lên, tiêu diệt lần lượt các mục tiêu được phân công, sau đó vượt kênh tiêu diệt luôn BCH tiểu đoàn 422. Sau 20 phút anh dũng chiến đấu, ta làm chủ hoàn toàn trận địa.

Kết quả, ta tiêu diệt toàn bộ một đại đội, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội, bắt sống 01 trung đội địch, thu nhiều súng đạn và đồ dùng quân sự, xoá sổ phiên hiệu tiểu đoàn 422 ngụy. Về ta trong trận này hy sinh 6 đồng chí và bị thương 2 đồng chí. Cũng sau trận này, địch không còn khả năng cơ động tăng viện, buộc phải rút hoàn toàn lực lượng ra khỏi khu căn cứ rừng tràm Mỹ Phước. Kế hoạch “đại phong”, của địch hoàn toàn bị phá sản, căn cứ Tỉnh uỷ được bảo vệ an toàn.

Chiến thắng Rạch Gò và các trận hậu Rạch Gò đã thể hiện tinh thần dám đánh, quyết đánh và quyết thắng của quân và dân Sóc Trăng nói chung, lực lượng vũ trang tỉnh nói riêng. Từ chỗ mất đất, mất dân, mất cơ sở, sau chiến thắng Rạch Gò và các chiến thắng hậu Rạch Gò, LLVT các địa phương trong tỉnh đã lần lượt bứt rút nhiều đồn bót, cơ sở được xây dựng, củng cố, căn cứ được bảo toàn, tạo nên thế và lực mới cho cách mạng. Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của địch ở Sóc Trăng bị phá sản. Đây là cơ sở để quân và dân Sóc Trăng củng cố lực lượng, tăng cường sức mạnh để cùng với quân và dân cả nước làm lên chiến thắng lịch sử 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước.
Bùi Mạnh Điệp

Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015

Một cõi đi về


CÂU CHUYỆN VỀ "TỂ TƯỚNG" TRẦN KIÊN (st)

Ông dân Quảng Ngãi, huyện Tư Nghĩa. Cả đời trai trẻ của ông gắn liền với cuộc chiến đấu ở miền Trung và Tây Nguyên. Sau khi đất nước thống nhất, ông làm bí thư tỉnh ủy một loạt tỉnh Quảng Ngãi, Nghĩa Bình, Gia Lai, Kontum, Đắc Lắc và mấy năm làm bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp. Tại Đại hội VI lịch sử, ông được bầu vào Ban bí thư Trung ương Đảng và giữ chức vụ chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương.

Khi hết nhiệm kỳ Đại hội VI, mặc dù được nhiều người tín nhiệm, ông kiên quyết xin nghỉ vì tuổi đã cao.

…Ngay sau khi nghỉ hưu, Bí thư Trung ương Đảng Trần Kiên đã trả lại cho Nhà nước ngôi biệt thự ở khu Trung Tự (Hà Nội), trả lại hết mọi chế độ ưu đãi dành cho cán bộ lãnh đạo cấp cao. Ông xin trung ương được trở về quê hương Quảng Ngãi sinh sống. “Gia tài của cả một đời làm cán bộ theo ông về quê tất tật gồm cả giường tủ, sách vở, lọ tương cà mắm muối chất chưa đầy một chiếc xe chở hàng nhỏ. Trong đó, giá trị nhất có lẽ là chiếc xe đạp được phân phối từ thời bao cấp”.

Ông Dương Quang Phái (vụ trưởng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng) nhớ lại: “Lúc đó, đồng chí Nguyễn Thanh Bình, thường trực Ban bí thư, đã giao cho Văn phòng Trung ương, Ban Tài chính quản trị trung ương và Tỉnh ủy Quảng Ngãi phải lo việc xây dựng nhà ở cho đồng chí Trần Kiên tại Quảng Ngãi. Nhưng đồng chí Trần Kiên đã xin phép trung ương là không chấp hành quyết định này vì ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, còn nhiều đồng chí, đồng bào đang gặp khó khăn. Ông nói số tiền đó nên dùng vào việc chung thì có ích lợi hơn. Đồng chí Trần Kiên chỉ xin địa phương một mảnh đất nhỏ, rồi dùng tiền tiết kiệm của hai vợ chồng để xây dựng nhà ở mà không đòi hỏi một thứ quyền lợi nào khác”.

Gọi là nghỉ hưu nhưng thật ra ông chưa bao giờ ngừng công tác. Với chiếc xe đạp cọc cạch, cựu bí thư Trung ương Đảng Trần Kiên vẫn có mặt đây đó trên các huyện miền núi, đến với đồng bào những vùng nghèo khó nhất để sau đó cùng tỉnh ủy bàn cách xóa đói giảm nghèo cho bà con.

Khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm Quảng Ngãi, thấy ông Trần Kiên đi xe đạp, Thủ tướng đã đề nghị trung ương cấp cho ông một chiếc xe hơi. Nhưng ông từ chối, xin được đi xe đạp để gần dân hơn, thấu hiểu dân chúng hơn. Ông Nguyễn Tiến Năng, nguyên trợ lý của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, kể: “Người ta thường thấy một ông già ăn bận như một lão nông với chiếc xe đạp cà tàng cùng mo cơm, khi thì lên Ba Tơ, lúc lại đến Trà Bồng, Sơn Hà… Ông ở lại hàng tuần lễ để khảo sát và bàn với anh em địa phương những biện pháp giúp dân làm ăn. Thậm chí ông bớt đi một phần tiền lương hưu của mình để mua cây giống, phân bón… giúp đồng bào. Khi chúng tôi đến thăm, thấy ông sống trong một căn nhà cấp 4 ở hẻm nhỏ thuộc thị xã Quảng Ngãi, giống như bao căn nhà khác của người dân xung quanh. Căn nhà nhỏ, thấp, chỉ vài chục mét vuông, phòng khách với những tiện nghi hết sức bình thường. Ông sống đạm bạc nhưng luôn lạc quan yêu đời”.

“Tể tướng Trần Kiên” (nhiều người gọi ông như vậy) từ chối mọi ưu đãi mà một cán bộ lãnh đạo cấp cao có quyền được hưởng, thậm chí từ chối mọi sự “hỗ trợ” mà ông cho là không đúng. “Trong năm năm công tác tại văn phòng Tỉnh ủy Quảng Ngãi, mỗi lần đến căn nhà nhỏ, đơn sơ của chú Kiên, tôi lại chạnh lòng nghĩ sao mà chú sống đơn giản và thiếu thốn cả những tiện nghi tối thiểu. Một lần, được sự đồng ý của thường trực tỉnh ủy, chúng tôi mang đến “trang bị” cho chú một tủ lạnh và một máy giặt. Chú đồng ý nhận một cách rất vui vẻ… Nhưng không ngờ độ mười ngày sau, chú đi xe ôm đến cơ quan tìm gặp tôi và đưa cho tôi một bọc tiền. Chú nói hôm trước các cháu mua hộ cho chú, chú rất ưng ý, hôm nay đến hạn rút tiền tiết kiệm, chú gửi lại tiền để cháu trả lại cơ quan”. Bà Trần Thị Mộng Nam đã không bao giờ quên chuyện này mỗi khi nghĩ về ông.

Ông đã dành phần lớn tiền lương và tiền tiết kiệm của mình để mua cây giống, rồi đưa lên Tây Nguyên giúp đồng bào thiểu số, hướng dẫn bà con cách trồng những giống cây mới. “Chiếc xe đạp cũ kỹ chở gạo, muối, cây giống lại theo ông ra bến xe. Có lần vì tuổi già và vì chở quá nặng, ông té ngã nằm dọc đường. Ông còn thuê cả xe tải chở cây giống lên giúp đồng bào. Chuyện kể rằng có lần do đêm quá khuya, nhỡ dọc đường, ông bảo lái xe cho đỗ cạnh nhà khách một cơ quan lớn. Ông vào nhà khách mượn manh chiếu cũ, rồi trải xuống thềm ngủ một giấc ngon lành. Khi những người trong nhà khách và các đồng chí tỉnh ủy phát hiện ra đó chính là cựu bí thư Trung ương Đảng thì ông đã đi rồi…”.


Ông sống như thế cho đến khi từ giã cõi đời, vào năm 2004. Trước khi mất, ông đã có dịp quay trở lại Hà Nội. Và trên chuyến xe trở về phương Nam, một người bạn đồng hành đã hỏi: “Anh sống như thế sau này có sợ người ta chê cười là dại không?”. Cựu bí thư Trần Kiên cười nói: “Ngay trong lúc này đã có người chê trách mình rồi đấy. Trong dịp ra Hà Nội lần này (năm 2003), mình có đến thăm ông bạn cùng thời. Ông ấy đang sống trong một cơ ngơi đàng hoàng mà ai thấy cũng phải thèm muốn. Ông bạn ấy bảo mình dại, vì nếu mình không trả cái nhà ở khu biệt thự Trung Tự thì bây giờ đã có hàng ngàn cây vàng. Hiện nay không ít vị được cấp cơ ngơi lên tới hàng ngàn mét vuông đất, mà mỗi mét vuông không dưới chục cây. Mình bảo: anh nói đúng, tôi quả là người dại tiền thật đấy, bởi vì nếu có trong tay hàng ngàn cây vàng tôi cũng chẳng biết làm gì. Nhưng chỉ với một mảnh vườn nhỏ và một ngôi nhà cấp 4 ở cái thị xã Quảng Ngãi bé nhỏ nhất nước này, tôi cảm thấy đầy đủ hơn bao đồng chí cùng thời và trước tôi. Anh thấy đấy, hiện nay có bao đồng chí, kể cả những đồng chí vào Đảng thời 1930-1935, vẫn phải sống với mảnh vườn tự tậu xác xơ, cũng chỉ được cấp 50 triệu đồng, có lẽ chỉ vừa đủ tu sửa ngôi nhà cấp 4 xiêu vẹo khỏi quị sụp, bảo đảm đứng được mà không cúi đầu trước sức mạnh của bão tố”.
====
Có lẽ, câu chuyện đồng chí Trần Kiên đã làm chúng ta cảm thấy nhẹ lòng biết bao trước phẩm chất của một người cộng sản chân chính... Nhưng cũng nhói lòng biết bao khi vẫn còn những người đang đánh cắp lòng tin của đồng chí đồng bào...
=====
Ảnh: đồng chí Trần Kiên (áo trắng ngồi giữa) với đồng bào K'Tu






(Nguồn: Facebook Hùng Ngô Mạnh)

Thứ Năm, 15 tháng 10, 2015

Ảo vọng...

Mang ước vọng đưa em về quê Mẹ
Thăm bờ tre nhìn ruộng lúa sau hè
Có dòng sông nước lớn ròng êm ả
Và ruộng chiều la lả cánh cò bay .
Mang ước vọng đưa em đi khắp chốn
Nhìn hàng cau , vườn Nội bưởi sai cành
Những mảnh vườn khi ta hồi còn bé
Nghịch phá một thời tuổi trẻ cứ rong chơi .
Sẽ đưa em đi vào mùa nắng hạ
Bằng chân trần trên đám mạ xanh non
Nghe mát rượi gót chân mềm dìu dịu
Dưới đồng chiều nhìn chim lượn hót véo von .
Đưa em thăm những trường xưa chốn cũ
Một thời ta quỷ quái nhất sân trường
Rồi kể lại nơi nao ta từng đã
Tính ngang tàng háo đá chú ngựa non ! .
Mang ước vọng đưa em đi tất cả
Để em được nhìn tuổi trẻ của ta xưa
Dưới đêm trăng bên thềm hiên quê Nội
Em được nghe ta kể chuyện qua rồi .
Ta hứa sẽ đưa em về quê Mẹ
Ước vọng nay thành ảo vọng xa vời
Mới nửa đường em quay lưng bỏ cuộc
Lỗi hẹn rồi sông nước của quê ơi !

Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2015

Một Thoáng Hương Xưa

Một Thoáng Hương Xưa

Có những thoáng thơ buồn anh đánh mất 
Giữa dòng đời đầy huyên náo bon chen 
Lối nhỏ về căn gác trọ thân quen 
Chân lạc lỏng , bước bên đời mỏi mệt 
Bao khao khát , ước mơ dường lịm chết 
Tuổi học trò , tình yêu quá đơn sơ 
Lén trao nhau mật ngọt mấy vần thơ 
Trang sách nhỏ , giấu bao lời yêu ái 
Tình đầu tiên biết bao là vụng dại 
Yêu để rồi giận dỗi ,....để rồi yêu 
Đạp bên nhau , xe quyến luyến đường chiều 
Cho dài mãi nhớ thương từng con dốc 
Có những lúc cùng nhau mình trốn học 
Vào xi nê phim tình cảm đê mê 
Tay trong tay , trao gửi những hẹn thề 
Miệng kề miệng , xuyến xao lòng đôi lứa 
Anh chẵng nhớ những gì anh đã hứa 
Còn riêng em chẵng có lúc nào quên 
Để lâu lâu , anh lại phải bắt đền 
Cho thêm nhớ , thêm thương vào ký ức 
Rồi lại có đôi khi lòng ghen tức 
Bạn bè trêu , em vẫn nụ cười duyên 
Còn anh như kìm hảm chút cuồng điên 
Cho khờ dại tái tê tình thơ ấu 
Em yêu hởi biết bao là yêu dấu 
Để giờ này , Anh mới thấu niềm đau 
Âm ỉ khơi từ dĩ vãng ngọt ngào 
Ôi tiếc quá ...... nếu xưa đừng như thế ...
HNLC

Một số hình ảnh sưu tầm












Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2015

Những cách ngủ của trẻ em rất dễ thương và hồn nhiên

Những cách ngủ của trẻ em rất dễ thương và hồn nhiên

Những đứa trẻ luôn dư thừa năng lượng. Chúng có thể nô đùa hàng giờ liền và khi mệt, chúng ngay lập tức có thể “ngã đâu là giường”.
Thế này vẫn ngủ tốt. Bạn có nghĩ rằng cô bé sẽ có giấc mơ đẹp?
Bữa sáng không ngon.
Mua sắm thật mệt mỏi.
Trong xe chả có việc gì làm cả..
Đợi Ông già Noel lâu quá...
Không kịp lên ghế mất rồi.
Ngủ đâu cần phải có gối
Bọn cháu không ngủ đâu, chỉ nằm nghỉ giữa hiệp thôi mà.
9. Ngủ thế này thoải mái hơn nằm trên sàn.
Ngủ đứng thì có sao.
 Trông bố mệt quá thôi
Cháu ngủ ở gầm giường để trốn quái vật đấy.
Khi nào tới biển, bố đánh thức con dậy nhé.
 Ăn cũng mệt.
Khi nào mệt thì ngủ thôi, chỗ nào chả được.
Tài xế xe tải tương lai.
Bố mẹ ơi, cứu con.
Nhiều việc phải làm quá mất.
Bạn (chó) nằm im cho tớ ngủ nhé.
Đệm này cũng êm đấy.

Đức Dũng
Nguồn: KBCHN.NET

Thứ Ba, 29 tháng 9, 2015

Người bắt “vụ buôn lậu còi hụ Long An” lên tiếng:

BÀI 2

TRUNG TÁ TRỞ XUỐNG ĐI TÙ,  ĐẠI TÁ THUYÊN CHUYỂN, CẤP TƯỚNG KHỎE RE

Qua điều tra ban đầu của quân cảnh Long An cho thấy vụ buôn lậu ít nhất có dính líu trực tiếp của một ông tướng ở phòng 6 Bộ Tổng Tham Mưu quân đội Sài Gòn và có đường dây bảo kê của hải quân vùng 4, các tỉnh trưởng Long An, Định Tường.... Từ lời khai của các những người áp tải đã phát lệnh truy bắt bốn chủ hàng là Hoa kiều Chợ Lớn, trong đó có hai người đã trốn qua tận Singapore. Vụ việc được đưa ra tòa án quân sự mặt trận vùng 4 xét xử. Hàng chục sĩ quan quân đội cấp tá, úy có liên quan bị tuyên án hàng chục năm tù nhưng những quan chức như Đại tá Lê Văn Năm, tỉnh trưởng Long An, Đại tá Chung Văn Bông, tỉnh trưởng Định Tường chỉ bị điều chuyển ra làm trung đoàn trưởng bộ binh. Các ông tướng liên quan hoàn toàn vô sự. Dư luận râm ran bà Thiệu Khiêm đứng sau vụ án.
Theo anh Nguyễn Văn Sang, ngay khi bắt giữ đoàn xe, Ban chỉ huy Tiểu đoàn 3 Quân cảnh nửa mừng nửa lo vì vụ việc quá lớn. Trong hoàn cảnh chiến tranh thời đó, việc đi lại ban đêm trên quốc lộ 1A rất nguy hiểm vì thường xuyên bị phục kích, đặt mìn. Thế nhưng từ Biên Hòa, sau khi nhận báo cáo bằng truyền tin, thiếu tá Đức Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 3 đã tức tốc đi xe jeep về đến Long An vào 1 giờ đêm để nắm thông tin vụ việc. Sáng hôm sau, quân cảnh Long An đã lập biên bản và dẫn giải những người bị bắt về tiểu khu Long An điều tra trong khoảng nửa tháng.


Báo chí công khai, dư luận lên tiếng, quyền lực đen phải co vòi
Ngay ngày hôm sau, báo chí Sài Gòn và cả báo chí Mỹ đã đăng rộ lên thông tin này. Người anh rể của anh Sang đang học ở Mỹ đọc báo biết tin em mình làm chuyện động trời ở Việt Nam nên hết hồn lo ngại. Nhưng thực tế dù chỉ là viên chức cấp thấp, công việc điều tra của anh Sang đụng đến quan chức cấp trên rất lớn nhưng hoàn toàn thuận lợi và không bị một áp lực, cản trở nào.
Có lẽ thấy quy mô vụ án quá lớn, Đặng Văn Nhâm đã tưởng tượng theo lô gích và viết về sự trù dập đối với người phát hiện và điều tra án “Nhưng trong danh sách những người đã bị tổng thống Thiệu ra lịnh bắt, để điều tra còn gồm luôn cả những sĩ quan và hạ sĩ quan, rõ ràng đã có công khám phá ra, và chận đứng lại được vụ buôn lậu này, như: Thiếu tá quận trưởng kiêm chi khu trưởng Gò Đen, Trung uý Thọ, trưởng Đồn Quân Cảnh Long An. Hai viên hạ sĩ quan Quân Cảnh gác trạm kiểm soát Long An, đã có công báo cáo nội vụ cho trung uý Thọ trưởng đồn, để trung uý Thọ báo cáo lên đại tá Lê Văn Năm ra lịnh chận đoàn xe buôn lậu. Chính bản thân đại tá Lê Văn Năm, đã sốt sắng thi hành nhiệm vụ, ra lịnh chận lại cho bằng được đoàn xe bằng mọi giá, cũng không thoát khỏi tội vạ oan nghiệt đổ xuống đầu…”. Thực tế, như đã nói là không có quận Gò Đen nên không có thiếu tá quận trưởng Gò Đen nào có công mà bị bắt. Về anh Sang, sau khi hoàn thành hồ sơ điều tra, anh Sang được thăng đặc cách trước hạng từ trung sĩ nhất lên thượng sĩ. Anh được điều động về Ban Chỉ huy Tiều đoàn 3 Quân cảnh làm nhiệm vụ xử lý thường vụ. Lúc này anh mới 23 tuổi và là thượng sĩ trẻ nhất đơn vị. Công việc xử lý thường vụ tiểu đoàn buộc anh phải điều động, kiểm tra cả những sĩ quan và hạ sĩ quan lớn tuổi, thâm niên cao hơn. Đó là công việc tế nhị và rắc rối về quan hệ, nên chỉ thời gian ngắn sau, anh xin chuyển về đại đội C ở Đồng Dù, sau đó Gò Dầu và cuối cùng về lại Long An. Đặng Văn Nhâm còn bịa đặt chuyện anh Sang bị đổi ra PleiKu và chết bí ẩn “Trung uý Thọ, trưởng đồn Quân Cảnh Long An, mặc dù đã có công và rõ ràng không dính líu gì vào vụ buôn lậu, đã bị phạt mấy chục ngày trọng cấm, có ghi vào quân bạ, và bị thuyên chuyển đi làm trưởng đồn QC Phước Long, một hình thức dùng bàn tay của CSBV để tiêu diệt chứng nhân. Vì chỉ trong vòng một thời gian ngắn sau đó trung uý Thọ đã bị ghi nhận là mất tích! Hai viên hạ sĩ quan Quân Cảnh, thuộc trạm kiểm soát Long An, đã có công đầu tiên báo cáo về hành tung của đoàn quân xa, đều bị phạt mỗi người mấy chục ngày trọng cấm có ghi vào hồ sơ, và thuyên chuyển lên Pleiku, thuộc Tiểu Đoàn 2 Quân Cảnh. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, 2 viên hạ sĩ quan này đã bị bắn chết không ai biết do quân thù hay quân ta hạ sát.” Thực tế Trung úy Thọ, trưởng đồn quân cảnh Long An không tham gia vụ bắt buôn lậu và cũng không bị bắt giam hay thuyên chuyển.
Đặng Văn Nhâm đã viết trong một đoạn khác của bài báo là “Đại tá Lê Văn Năm, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Long An bị giáng cấp xuống đại uý, và bị thuyên chuyển ra Sư Đoàn 21, đóng ở Chương Thiện, Gia Rai, và phải đi hành quân như một lao công chiến trường”. Theo lời anh Sang, Đại tá Lê Văn Năm hoàn toàn không sốt sắng ra lệnh chận bắt đoàn xe mà chỉ được biết sau khi anh Sang đã bắt và báo cáo lại. Nhận được tin dữ này ông Năm còn buộc miệng tức tưởi chưởi thề “ĐM tại sao đi giờ này?”. Kết quả điều tra cho thấy ông Năm có liên quan sâu trong đường dây buôn lậu, đáng lẽ phải bị bắt giam và ra tòa như những quân nhân khác nhưng không rõ vì tác nhân nào đó, ông Năm chỉ bị điều chuyển làm trung đoàn trưởng trung đoàn 14 của sư đoàn 9. Đại tá Quyến hoán chuyển về làm tỉnh trưởng Long An đến 30-4- 75. Lê Văn Năm hoàn toàn không  bị cách chức xuống làm đại úy và làm lính khổ sai như Đặng Văn Nhâm đã viết.

Siêu nổ, siêu xạo Đặng Văn Nhâm
Tổng thông Thiệu phải xử nghiêm, Đại tướng Viên không dám bênh đệ tử ruột
Qua điều tra, quân cảnh Long An phát hiện ra đường dây buôn lậu này bắt đầu từ một vị tướng ở phòng 6 (chuyên về tình báo quân sự, chỉ huy các lực lượng Biệt kích Dù, Lôi Hổ…) Bộ Tổng Tham Mưu, móc nối với một số đơn vị hải quân ở vùng bốn và các tỉnh trưởng Long An, Định Tường đưa hàng lậu từ biển vô bằng tàu hải quân và dùng quân xa đưa hàng về Sài Gòn giao hàng ở khu vực cây Da Sà. Chuyến hàng bị bắt là chuyến thứ 11. Một số chuyến trước đi từ hướng Cần Giuộc lên Sài Gòn. Nhưng do An Ninh quân đội phản ánh, Tiểu đoàn 3 quân cảnh đã cử hai sĩ quan chốt chặn ở Cần Giuộc nên nhóm buôn lậu chuyển địa bàn lên hàng ở Chợ Gạo. Cũng qua điều tra cho thấy, các chuyến trước hầu hết đều chuyển hàng vào ban ngày, đoàn xe lậu được các tỉnh trưởng bảo kê và hòa lẫn trong các đoàn xe công vụ nên không bị phát hiện. Lần này, do đi vào ban đêm lúc các đoàn xe công voa đã về hết và có những biểu hiện vi phạm rõ ràng về hình thức, thủ tục khi di chuyển nên mới bị bắt giữ.
Cũng theo anh Sang, ý thức đối diện với một vụ án lớn, các anh đã làm việc rất nghiêm túc. Trong số những người bị bắt có thượng sĩ Hảo (nguyên là huấn luyện viên bắn súng lục ở trường Quân cảnh) là thầy cũ của anh. Hảo là tay súng thiện xạ nổi tiếng có thể bắn đứt dây kẽm gai nhỏ xíu, từng thách thức bắn đứt đầu điếu thuốc đang ngậm trên miệng người khác… Dù kính trọng ông thầy cũ, anh Sang vẫn bắt giam theo đúng luật. Một người bạn học đồng khóa với anh nhưng đã đào ngũ và đi làm bốc vác cho đoàn buôn lậu cũng bị giam. Anh Sang chỉ dành một đặc ân duy nhất cho người này là mỗi sáng mang cho bạn ổ bánh mì, gói thuốc hút. Thiếu tá Đeo, trưởng ban 2 tiểu khu Long An vì tình cảm với anh Sang đã nới lỏng cho người này ngồi ở văn phòng. Người này lợi dụng sơ hở bỏ trốn, thiếu tá Đeo đã bị kỷ luật cách chức xuống còn binh nhì.
Cũng từ kết quả điều tra và báo cáo của quân cảnh Long An, An Ninh quân đội đã lần lượt bắt giam hàng chục sĩ quan từ cấp tá tới cấp úy có liên quan đến vụ án. Đây chỉ là phần việc của Bộ Tổng Tham mưu, thế nhưng Đặng Văn Nhâm đã lên gân gán ghép cho là âm mưu của Nguyễn Văn Thiệu “Theo sự tìm hiểu của tôi, những người đã bị tổng thống Thiệu ra lịnh tống giam ngay sau đó để điều tra, ngoại trừ đại tá Lê Văn Năm, tỉnh trưởng Long An, gồm toàn các sĩ quan cấp thấp và hạ sĩ quan, như: Đại uý Nhiều, tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 6 Quân Cảnh, thuộc Biệt Khu Thủ Đô. Đại uý Trần Hữu Thế, con rể của đại tá Luông, Giám Đốc Cảnh Sát quân khu 3, đàn em thân cận của vợ chồng thủ tướng Trần Thiện Khiêm. Đại uý Thế thuộc Tiểu Đoàn 4 Quân Cảnh, đặt dưới quyền sử dụng của Quân Đoàn 4, làm trưởng Đồn Quân Cảnh Mỹ Tho, tức thuộc cấp của đại tá Chung Văn Bông, tỉnh trưởng Mỹ Tho, kiêm tiểu khu trưởng Định Tường. Đại uý Quới, trưởng đoàn quân xa thuộc Quân Vận quân đoàn 3. Đại uý trưởng ty Cảnh Sát quận Chợ Gạo, một viên sĩ quan An Ninh Quân Đội, tôi không nhớ tên, thiếu tá chỉ huy trưởng Giang Đoàn ở Mỹ Tho (mấy người này tôi không nhớ tên)... “
Đặng Kim Thu (Thu Đen), trung tá quận trưởng Chợ Gạo, từng là sĩ quan tùy viên của tướng Cao Văn Viên đã tường thuật chi tiết hoàn cảnh bị bắt và xét xử của mình như sau “Trong khi đang làm nhiệm vụ, theo lệnh trên, tôi đã cho lính canh gác, giữ an ninh một chiếc tàu Hải quân nhỏ, đang đậu trên sông trong phạm vi cuả quận Chợ Gạo, đề phòng VC dùng B40 bắn. Vài ngày sau, chiếc tàu bị bắt vì dính liú đến vụ buôn lậu lớn, mà báo chí đặt tên là “Còi hụ Long An”, từ hải phận quốc tế. Ngày 31-1-74, vụ buôn lậu bị phát giác thì tới ngày 1- 3-74, tôi bị gọi lên cục An Ninh Quân đội để điều tra. Tại đây tôi đã trình bày rằng tôi chỉ thi hành theo lệnh trên, không biết đó là chiếc tàu dùng để buôn lậu, và không hề có chân trong tổ chức này. Trước khi tôi vào trình diện Cục An Ninh Quân đội, tôi vào nhà Đại Tướng Viên để cầu cứu thì được ông cho biết rằng tôi đã dính vào chuyện lớn ngoài tầm tay can thiệp của ông. Ông còn nói thêm, vụ này không còn là vụ buôn lậu bình thường nữa mà là một vụ liên quan tới thời cuộc. Không khéo thì chính phủ sẽ gặp rắc rối. Thôi thì chú ráng chiụ đựng trong lúc này, chờ đến khi tình hình lắng diụ, dư luận không còn ồn ào nữa, lúc ấy tôi sẽ liệu cách cứu chú. Hiện giờ không ai dám nói gì hết. Vì ông Thiệu đang tức giận. Còn báo chí ngoại quốc, và báo chí đối lập trong nước đang theo dõi để đả kích chính phủ. Với những lời khai như đã nói tới ở trên, tôi vẫn bị toà án kết án 20 năm tù, đầy ra Côn Đảo, cùng với những người chung vụ vào ngày 15-8-74 với tội danh “Làm lũng đoạn nền kinh tế quốc gia”. Lời kể của ông Thu cho thấy, rõ ràng đây là vụ án lớn, chịu nhiều áp lực của dư luận báo chí trong ngoài nước phải xử lý nghiêm ngay cả Đại tướng Cao Văn Viên cũng không dám can thiệp cho đệ tử ruột của mình. Và ngay trong hồi ký viết sau đó hàng chục năm, ông Thu cũng chưa thật sự thành khẩn.
Chỉ đánh từ trên vai xuống
Theo kết quả điều tra cho thấy đường dây buôn lậu này liên quan đến nhiều cấp nhiều đơn vị, binh chủng khác nhau: hàng lậu từ tàu đậu ở ngoài khơi đem vào đất liền là Giang Đoàn 56 Tuần Thám do HQ/Thiếu Tá Ninh Duy Định làm Chỉ Huy Trưởng vận chuyển đổ vào đất liền. Địa điểm đổ đồ lậu là Chợ Gạo, Mỹ Tho. Dù ông Đặng Kim Thu né tránh nói mình vô tội nhưng hồ sơ điều tra cho thấy để bảo vệ bí mật cho việc bốc vở 11 chuyến hàng lậu từ tàu lên xe, chính quyền địa phương đã báo động, ra lệnh giới nghiêm cấm người dân đi lại. Ông quận trưởng, cảnh sát trưởng quận không thể nào không biết và không ăn chia trong chuyện này, vì vậy việc ông Thu và trưởng chi cảnh sát Chợ Gạo ra tòa là hoàn toàn xác đáng.
Việc đoàn quân xa chuyên chở hàng lậu lại thuộc Quân Vận quân khu 3, và Quân Cảnh mở đường cho đoàn quân xa chở hàng lậu cũng thuộc Biệt Khu Thủ quân khu 3 như vậy, chắc chắn phải có sự thoả hiệp nào đó của các cấp cầm quyền quân sự từ cấp quân khu trở lên. Trong hồ sơ điều tra cũng cho thấy có ông tướng ở phòng 6 Bộ Tổng tham mưu ký sự vụ lệnh cho đoàn xe như vậy những người đã có dấu hiệu, bằng chứng tham gia còn ở cấp cao hơn. Ít nhấ phải là hai đại tá Lê Văn Năm, Chung Văn Bông, tướng trưởng phòng 7, tư lệnh Quân Đoàn 3, và tướng tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô…. Nhưng những con cá lớn này hoàn toàn thoát lưới và không bị ra tòa, không bị cáo buộc về liên đới trách nhiệm. Từ cấp trung tá trở xuống, tất cả các đơn vị có liên quan đến đường dây buôn lậu hoặc thuộc địa bàn đoàn buôn lậu đi qua đều bị xử lý hết sức nặng nề. Tất cả đều bị đưa ra tòa và bị lột hết cấp bật lãnh án từ 7 đến 20 năm tù Côn Đảo.  Đại uý Nhiều, Tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 6 QC thuộc Biệt Khu Thủ Đô. Đại uý Thế trưởng đồn Quân Cảnh Mỹ Tho, thuộc Tiểu Đoàn 4 QC,  Đại uý Qưới chỉ huy đoàn quân xa, HQ/Trung Tá Lê Huệ Nhi, Thiếu tá HQ Ninh Duy Định, trung tá Biên quận trưởng quận Bến Tranh …. Ngay cả hạ sĩ quan quân cảnh nhằm phiên trực các trạm quân cảnh trên đường có đoàn xe đi qua cũng bị lột lon phạt giam.
Dựng lên những thông tin không có thật “Như trên vừa trình bày, hầu hết những sĩ quan và hạ sĩ quan đã có công chận bắt vụ buôn lậu "Còi Hụ Long An" đều bị tổng thống Thiệu trực tiếp ra lịnh tống giam để chờ ngày ra toà lãnh án” Đặng Văn Nhâm đã bình luận thêm những hệ quả không có thật về vụ án này nghe rất bi thương. “Vụ án này đã gây chấn động dư luận trong nước một thời gian khá dài, đồng thời cũng là một vết thương đau đớn cho toàn thể binh chủng Quân Cảnh, một đơn vị quan trọng có tác dụng duy trì quân phong, quân kỷ của quân lực VNCH. Riêng tinh thần của hai đơn vị Quân Cảnh thuộc Quân Khu 3 và Quân Khu 4 đều bị sa sút đến mức thảm hại. Họ không còn thấy được đâu là công lý và đâu là sự thực nữa!”
Muốn chống buôn lậu tham nhũng phải có báo chí tham gia
Cựu thượng sĩ Nguyễn Văn Sang lại cho thấy sự thật khác. Tiểu đoàn 3 Quân cảnh rất phấn chấn về vụ án này đã rửa được nỗi oan mà họ bị An Ninh quân đội gán cho là đã bảo kê buôn lậu trong những cuộc họp của Bộ Tổng Tham Mưu trước đó. Qua một người thân làm ở ngành quan thuế, anh Sang được biết ngành quan thuế đã trích thưởng theo giá trị lô hàng số tiền một triệu đồng và đại diện Tiểu đoàn 3 Quân cảnh đã nhận. Rất tiếc là cá nhân anh không được chia đồng nào trong số tiền này. Với mức lương thượng sĩ chỉ khoảng 23.000 đồng, giá vàng khoảng 7000 đồng lượng thì giá trị số tiền thưởng một triệu đồng thời điểm ấy là rất lớn.
Anh Sang cũng thấy rằng với kết quả điều tra của anh và mức độ xử lý vụ việc cũng còn có nhiều điểm chênh. Những người cấp cao có dấu hiệu phạm tội, có trách nhiệm liên quan đã không bị xử đến nơi đến chốn. Những người như thiếu tá Đeo vì thương người, sơ suất để bị can bỏ trốn phải cách chức xuống còn binh nhì hay thiếu tá Bé chỉ vì sơ suất để thất thoát một số hàng bị lột lon, đi tù là quá nặng. Điều này cho thấy chừng như những quan chức cao hơn của chính quyền mà cụ thể là tổng thống Thiệu chưa thật lòng, thật tâm chống tham nhũng mà việc xử lý chỉ nhằm đối phó với dư luận.
Nhưng cũng chính từ trường hợp này, anh Sang đã chiêm nghiệm ra một điều, chống tham nhũng, buôn lậu hoàn toàn không khó. Với anh là nhân viên cấp thấp, chỉ cần làm đúng chức năng theo luật định đã phá được đường dây tham nhũng, buôn lậu tầm cỡ quốc gia. Điều kiện không thể thiếu là pháp luật phải rõ ràng minh bạch, báo chí phải được thông tin công khai và phải có áp lực từ các tổ chức xã hội đối lập. Vụ buôn lậu còi hụ được phát hiện và anh dám quyết bắt giữ hàng, giữ người chính là nhờ những quy định về vận chuyển quân xa rất rõ ràng. Khi sự kiện được báo chí trong ngoài nước đưa tin, dư luận chú ý theo dõi và các phong trào của linh mục Trần Hữu Thanh, các dân biểu đối lập mạnh dạn lên tiếng đấu tranh đã tạo áp lực rất lớn cho chính quyền.
Trong câu chuyện thân tình, anh Sang đã nói nửa thật nửa vui là lúc nghe lời khai về chiếc xe Jeep trắng mang theo sáu chục triệu đồng tiền mặt (để dành chi trả hối lộ khi bị bắt) đã trốn mất trong lúc đang chốt chặn kiểm tra, anh đâm ra tiếc. Nếu đêm ấy chạy lên Gò Đen kiểm tra, chắc chắn anh sẽ tìm được chiếc xe ấy và nếu họ đưa hối lộ với số tiền ấy chắc anh sẽ cầm lòng không đậu mà sẽ nhận. Anh Sang kể, trong mấy năm làm quân cảnh anh chỉ phạt hoặc tha chứ chưa từng nhận tiền để tha. Có lần anh đã tha một xe hàng lậu, chủ hàng đã đưa cho người môi giới một triệu đồng và anh đã buộc người môi giới hoàn trả. Nhưng một triệu là chuyện khác, sáu chục triệu đồng lại là chuyện khác. Với sáu chục triệu, người ta có thể đổi đời và có thể đánh đổi mọi thứ an toàn. Đó là câu chuyện rất thật và mang tính người. Vấn đề với người, cơ quan có trách nhiệm quản lý nếu khôn ngoan phải có cơ chế, biện pháp phù hợp để tránh cho cấp dưới phải đối diện với những cám dỗ quá mạnh thì mới mong giữ được sự lương thiện của con người.
Chú thích ảnh: Mỹ Tho với sông Tiền thuận lợi cho tàu bè từ biển chở hàng vào

Xe GMC quân sự của Mỹ sản xuất, loại xe được dùng chở hàng lậu trong vụ buôn lậu còi hụ
Nguồn: KBCHN.net

Người bắt “vụ buôn lậu còi hụ Long An” lên tiếng

Bài 1 Người trung sĩ Quân Cảnh “bị bắn chết” sống dậy, vạch mặt kẻ nói dối

Song Lê


Gần đâymột số tờ báo trong nước đã đăng lại “Vụ buôn lậu còi hụ” ở Long An thời chế độ cũ với nhiều cái tựa rất sốc “Vụ buôn lậu chấn động của vợ chồng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu”, “Bí mật vụ buôn lậu của vợ chồng Tổng Thống Thiệu”…. Hầu hết các bài viết này đều có nội dung, chi tiết na ná nhau và chừng như được dẫn lại từ bài viết của Đặng Văn Nhâm, một cây viết đầy “tai tiếng” hiện định cư ở Đan Mạch. Trong các bài đó, có nhiều thông tin sai sự thật, không có thật, thí dụ như cho rằng việc bắt đoàn xe buôn lậu xảy ra tại quận Gò Đen, quận trưởng quận Gò Đen có công bắt buôn lậu nhưng bị mất chức, bị giam…. Trong khi thực tế xưa nay, Việt Namchưa hề có quận Gò Đen. Các bài viết cũng cho rằng, viên trung sĩ quân cảnh bắt giữ đoàn xe buôn lậu này đã không được tưởng thưởng mà còn bị đày đi PleiKu và chết bí ẩn, trung úy Thọ trưởng đồn quân cảnh Long An cũng bị mất chức và chết bí ẩn. Thông tin báo chí Miền Nam thời đó đã đăng rõ họ tên người bắt đoàn xe buôn lậu là Trung sĩ nhất quân cảnh Nguyễn Văn Sang thuộc Trạm kiểm sát quân xa Tân An thuộc đại đội 3 C, tiểu đoàn 3 quân cảnh. Chúng tôi đã tìm gặp anh Sang, người bắt đoàn xe buôn lậu đó nay vẫn còn sống ở tại xã Khánh Hậu, TP Tân An và xin giới thiệu câu chuyện của anh Sang đối chiếu, các nguồn tin khác.


Đặng Văn Nhâm đã nhiều lần đăng trên báo chí hải ngoại về vụ buôn lậu này với thái độ rất tự tin là đã quen biết, tiếp xúc với những người trong cuộc và dẫn ra tên tuổi, tướng mạo của từng người kể cả lai lịch họ hàng. Đặng Văn Nhâm cho rằng báo chí đương thời không dám viết lên bản chất vụ án. Chỉ có mình Đặng Văn Nhâm là người yêu nước, dũng cảm hàng chục năm sau khi trốn chạy ra hải ngoại đã dám nói lên sự thật về vụ buôn lậu này. Đặng Văn Nhâm quy kết vợ chồng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và nhiều quan chức đứng sau vụ buôn lậu này. Những kẻ bị bắt, bị xử lý chỉ là những con vật tế thần, là tép riu phải chịu hàm oan.

Thông tin hấp dẫn nhưng sai sự thật
Rất tiếc là sự dũng cảm của Đặng Văn Nhâm khá muộn màng, quy tội Thiệu, Khiêm và nhiều người khác hàng chục năm sau khi họ đã mất hết chức quyền sống đời lưu vong, trong đó nhiều người đã chết. Trong khi đương thời khi vụ án xảy ra, báo chí miền Nam đã vào cuộc, điều tra, đưa thông tin sát sao. Linh mục Trần Hữu Thanh năm 1974 đã phát động “Phong Trào Chống Tham Nhũng và Kiến Tạo Hòa Bình” đã đưa vụ buôn lậu này vào bản cáo trạng số 1, tố cáo sự thối nát của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ra dư luận trong nước và quốc tế ngay lúc Thiệu đang đương chức Tổng thống.
Những thông tin của Đặng Văn Nhâm về vụ buôn lậu này sai thực tế rất xa, người viết đã nổ văng mạng, giỏi sáng tác mà thiếu kiến thức. Về đoàn xe buôn lậu, Đặng Văn Nhâm đã viết như sau: “Còn cái tên dị hợm "Còi Hụ Long An" là bởi vụ buôn lậu táo bạo từ cổ chí kim chưa từng xảy ra này, đã gồm cả đoàn công voa, hàng chục chiếc quân xa thuộc nha quân vận vùng 3, và có xe quân cảnh dẫn đầu đàng hoàng. Đoàn quân xa phủ bạt kín mít như bưng, di chuyển tới đâu, xe quân cảnh mở đường hú còi inh ỏi, báo cho các trạm kiểm soát dọc đường biết đây: Là đoàn xe có quyền ưu tiên, không được chận xét. Nếu là đoàn xe vận chuyển võ khí, đạn dược, nhiên liệu, quan trọng hơn, còn có cả phi cơ L 19, còn gọi là "máy bay bà già" bay rề rề trên không, để thám thính và phòng ngừa địch quân phục kích. Nhưng đoàn quân xa di chuyển có quyền ưu tiên như thế, không ngờ bất thình lình lại bị chận đứng ở một trạm kiểm soát thuộc tỉnh Long An. Khi ấy mới đổ bể ra là đoàn xe buôn lậu, toàn những mặt hàng xa xí phẩm, đắt tiền, đặc biệt dành để bán vào dịp Giáng Sinh và Tết, như: Các loại rượu quý, Cognac, Martel, Whisky, Champagne, các loại thuốc lá thơm hiệu con mèo Craven "A", 555, Marlboro, quần áo, hàng vải, tơ lụa, giày vớ của Pháp, Ý, nồi nấu cơm National, các loại đồ chơi điện tử của Nhật, đồng hồ hiệu Omega, Longine, Rolex, Seiko, Certina, đá lửa, bật quẹt máy đủ loại tối tân, bút máy Parker, Mont Blanc, Cross, các loại bánh kẹo trứ danh của Anh, Hoà Lan và Đan Mạch v.v....”


Cựu trung sĩ nhất Nguyễn Văn Sang.

Người bắt đoàn xe buôn lậu

Theo anh Sang, người trung sĩ nhất quân cảnh trực tiếp bắt đoàn xe, thì đoàn xe buôn lậu này chỉ gồm bảy chiếc xe GMC và hai chiếc xe Jeep, một quân sự một dân sự chứ không phải hàng chục chiếc như Nhâm đã viết. Hàng hóa trên xe chỉ gồm hai loại là rượu Hennessy và thuốc lá chứ không phải đủ thứ hàng đồng hồ, nồi cơm điện….
Đặng Văn Nhâm không hiểu về quy chế phương thức hoạt động của các đoàn công voa quân sự. Không phải các đoàn công voa có xe quân cảnh dẫn đường, có còi hụ là được quyền bất khả xâm phạm không ai được xét.
Về nhiệm vụ, quân cảnh VNCH cũng giống như lực lượng Kiểm soát quân sự hiện nay có nhiệm vụ duy trì, kiểm tra xử lý những vi phạm về quân phong, quân kỷ, quân pháp trong quân đội. Vai trò của quân cảnh hộ tống các đoàn công voa, trước hết là nhằm bảo đảm kỷ luật và an toàn cho đoàn xe trên đường di chuyển. Theo quy định, để bảo đảm an ninh phải có một xe quân cảnh mở đường và một xe khóa đuôi, giữa hai xe quân cảnh là đoàn xe quân sự, tuyệt đối không để xen lẫn trong đó yếu tố dân sự nào (xe, hoặc người).
Không trình báo, đi sai quy định…trung sĩ có quyền ra lệnh bắt

Các đoàn xe công voa không phải được ưu tiên muốn đi đâu thì đi, không ai được xét, mà ngược lại được quản lý chặt chẽ theo sự vụ lệnh của Phòng Hành quân của đơn vị có thẩm quyền. Kế hoạch di chuyển, số lượng đoàn xe phải thông báo đến các bộ phận hành quân nơi đi, nơi đến, nơi có liên quan trước và sau khi đi. Trưởng đoàn hoặc quân cảnh hộ tống phải thông báo, trình báo qua hệ thống truyền tin với các trạm, đồn quân cảnh kiểm sát quân xa ở những địa phương mà đoàn đi qua. Nếu các đơn vị quân cảnh này thấy có dấu hiệu vi phạm vẫn có quyền xét, bắt giữ. Trường hợp trạm quân cảnh Long An bắt giữ đoàn xe buôn lậu còi hụ là một điển hình, mà cụ thể ở đây là chỉ một viên trung sỉ nhất quân cảnh đang làm nhiệm vụ trực trạm kiểm soát quân xa Long An đã có quyền bắt ông Đại úy quân cảnh hộ tống trái phép và cả đoàn xe.
Về diễn tiến việc bắt giữ, Đặng Văn Nhâm đã viết như sau: Khi đoàn quân xa do đại uý Nhiều dẫn đầu tới trạm kiểm soát hỗn hợp gồm Quân Cảnh và Cảnh Sát ở Long An thì mặt trời đã xế bóng, nhưng vẫn còn trông tỏ mặt người. Lúc bấy giờ trong trạm kiểm soát của quân cảnh ở Long An chỉ có mặt vỏn vẹn 2 viên hạ sĩ quan quân cảnh. Hai viên trung sĩ QC ấy không lạ gì đại uý Nhiều, tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 6 QC, thuộc Biệt Khu Thủ Đô. Lúc đoàn quân xa đi qua trạm gác, họ đã thấy rõ mặt đại uý Nhiều. Lúc ấy ông ta đang ngồi vách đốc trên xe, có vẻ dường như đã "SỈN" rồi!”
Theo lời khai của cả 2 viên hạ sĩ quan trước uỷ ban điều tra, ngay lúc đó, họ đã thi hành phận sự, thổi còi chận đoàn xe lại, nhưng đoàn xe không ngừng. Bởi thế, họ không khỏi thắc mắc, lo ngại cho phận sự và trách nhiệm của mình. Theo lời khai của họ, mặc dù đoàn quân xa có quân cảnh mở đường hợp lệ, và trên xe có sự hiện diện của Đ.U. Nhiều, nhưng tại sao đoàn tuỳ tùng lại nhốn nháo một bầy lẫn lộn quân nhân và dân sự, ăn mặc lôi thôi, xốc xếch và tốc độ vận chuyển quá mức bình thường khi qua trạm gác. Họ chợt nhớ tới nghiêm lệnh của phủ tổng thống là phải kiểm soát chặt chẽ, bất kỳ một đoàn quân xa nào khả nghi vào đô thành, để phòng ngừa âm mưu đảo chánh, hoặc sự phá hoại của đặc công CSBV. Trong khi họ còn đang suy nghĩ, phân vân và lo ngại thì đoàn quân xa của Đ.U. Nhiều đã đi xa mất hút rồi. Hai viên hạ sĩ quan này chỉ còn cách duy nhất, là cấp tốc điện thoại liên lạc về đồn Quân Cảnh Long An, báo tin cho chỉ huy trưởng trực tiếp của họ là trung uý Thọ. Viên trung uý trưởng đồn được báo cáo khẩn như vậy cũng tá hoả tam tinh, nhưng vẫn không biết phải đối phó cách nào, liền báo cáo chuyền lên thượng cấp của ông ta, lúc bấy giờ là đại tá Lê Văn Năm, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Long An để xin chỉ thị. Được biết đại tá Lê Văn Năm vốn là bào đệ của chuẩn tướng Lê Văn Tư, cựu tỉnh trưởng Gia Định, người tình của nàng Ánh Hoa VÚ BỰ, vào đầu năm 1975 đã bị tống giam vào khám Chí Hoà vì tội tham nhũng”Trung sĩ Sang cung cấp thông tin thực tế cho thấy bài viết này hoàn toàn là sáng tác của Đặng Văn Nhâm, đó là sự tưởng tượng sai cả kiến thức lẫn thực tế. Về thực tế thì không hề có cái gọi là trạm kiểm soát hỗn hợp gồm Quân Cảnh và Cảnh Sát ở Long An” mà đây là Trạm kiểm sát quân xa Tân An là đơn vị cấp trung đội trực thuộc đại đội C3 của Tiểu đoàn 3 quân cảnh, phụ trách địa bàn tỉnh Long An, ngoài trạm này, Long An không còn đồn quân cảnh nào khác.
Trụ sở của trạm này nguyên là nhà ga xe lửa Tân An trên tuyến đường sắt Sài Gòn Mỹ Tho ngày xưa. Vị trí của trạm, ngày nay là dãy nhà dọc bên quốc lộ 1A đối diện Thánh thất Cao Đài Phường 2 TP. Tân An. Cũng không có hai hạ sĩ quan quân cảnh mà chỉ duy nhất có trung sĩ nhất Nguyễn Văn Sang làm nhiệm vụ trực trạm và có trách nhiệm và toàn quyền xử lý vụ việc, không cần trình báo và thực tế cũng không hề trình báo với trung úy Thọ. Thời điểm này, trung úy Thọ không vào ca trực, đang ở nhà riêng và cũng không có phương tiện liên lạc.
Thời điểm đoàn quân xa lậu đi qua không phải là lúc mờ tối nhưng còn thấy rõ mặt người để biết là Đại úy Nhiều đang sỉn như ông Nhâm viết mà khoảng 10 giờ 30 tối. Dấu hiệu để anh Sang chú ý đến đoàn quân xa là tốc độ chạy quá nhanh làm rung rinh cả nền Trạm kiểm soát và trên xe loáng thoáng có thấy người mặc quần áo dân sự.
Như đã nói ở phần trên, đoàn xe này này đã vi phạm quy định rõ ràng nhất là để lẫn xe jeep trắng dân sự ở giữa đoàn xe tải quân sự GMC. Hơn thế nữa, đoàn xe này không hề có thông tin trình báo với Trạm kiểm soát. Từ những dấu hiệu bất thường này, anh Sang đã gọi điện cho trung úy Hộ ở phòng 3 tiểu khu Long An và một đại úy phụ tránh hành quân của quân đoàn 3 để thẩm định hành trình các đoàn quân xa thì được biết là các đoàn quân xa đã về hết lâu rồi. Thấy có nhiều dấu hiệu bất thường, anh Sang quyết định chặn giữ đoàn xe để khám xét. Theo thẩm quyền của trạm kiểm soát, anh gọi điện cho chi khu (Quận) Bến Lức chặn đoàn xe nhưng đoàn xe chạy quá nhanh đã vượt qua cầu Bến Lức.
Lúc này, tại Gò Đen, có căn cứ của tiểu đoàn 332 địa phương quân thuộc tiểu khu Long An đóng sát quốc lộ. Anh Sang đã gọi điện cho Thiếu tá Bé, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 332 yêu cầu cho quân kéo kẽm gai lồng chốt chặn, buộc đoàn xe dừng lại. Đến lúc này, Đại úy Nhiều người đi xe quân cảnh mở đường cho đoàn xe lậu xưng danh tánh, chức vụ Tiểu đoàn phó quân cảnh Biệt khu Thủ đô hù dọa, trấn áp đơn vị địa phương quân, yêu cầu giải tỏa cho đoàn xe.
Trung sĩ bắt giam đại úy, Đại tá tỉnh trưởng không dám lên tiếng

Nghe báo cáo của trung uý Thọ, trưởng đồn Quân Cảnh Long An, đại tá Lê
Văn Năm không khỏi giật mình lo cho địa vị của mình. Ông liền cấp
tốc điện thoại cho viên sĩ quan thuộc cấp, quận trưởng kiêm chi khu
trưởng chi khu Bến Lức. Nhưng viên sĩ quan quận trưởng kiêm chi khu
trưởng Bến Lức trả lời, cho biết đoàn quân xa đã vượt khỏi trạm
kiểm soát của Bến Lức rồi. Mối lo sợ càng gia tăng dồn dập, đại tá Năm
lập tức ra lịnh cho viên sĩ quan quận trưởng kiêm chi khu trưởng chi
khu Gò Đen, bằng mọi giá phải chận đứng cho bằng được đoàn xe quân vận
ấy. Lúc bấy giờ, đoàn quân xa do Đại uý Nhiều Quân Cảnh mở đường
đang tiến trên lộ trình giữa Bến Lức và Gò Đen. Được lịnh khẩn của thượng cấp, viên sĩ quan quận trưởng kiêm chi khu trưởng Gò Đen lập tức ra công đốc xuất binh sĩ, và các lực lượng nhân dân tự vệ trong vùng, gần trạm kiểm soát Gò Đen đem hết các chướng ngại vật ra đặt giữa đường, đồng thời kéo dây kẽm gai chăng kín cả lối đi. Dân chúng trong khu gia binh gần đó cũng náo nức thi đua đem cả bàn ghế ra chận đường. Kết quả đương nhiên là đoàn quân xa do đại uý Nhiều, tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 6 Quân Cảnh thuộc Biệt Khu Thủ Đô dẫn đầu, dù muốn dù không cũng phải ngừng lại. Khi đó viên sĩ quan chi khu trưởng Gò Đen mới đánh điện báo cáo cho đại tá Lê Văn Năm tiểu khu trưởng Long An. Mặc dù trời đã tối sẫm, rất dễ bị quân du kích CS phục kích dọc đường, nhưng đại tá Lê Văn Năm vẫn phải cấp tốc lên xe cùng đoàn quân hộ tống tuỳ tùng chạy thẳng đến chi khu Gò Đen, để chứng kiến tại chỗ sự việc.”
Đây lại thêm là một đoạn tưởng tượng của Đặng Văn Nhâm. Xưa nay ở Việt Nam chưa bao giờ có quận Gò Đen và chi khu Gò Đen thì làm sao có quận trưởng? Gò Đen chỉ là tên gọi dân gian để chỉ vùng đất gồm các xã Mỹ Yên, Phước Lợi của huyện Bến Lức chứ không phải là một địa danh hành chánh. Do tình hình an ninh trên quãng đường này thường bị đặt mìn phục kích về đêm, nên sau khi bắt giữ đoàn xe, anh Sang không trực tiếp lên Gò Đen mà qua hệ thống truyền tin hướng dẫn cho đơn vị địa phương phương quân làm thủ tục kiểm tra sự vụ lịnh của đoàn công xa. Đại úy Nhiều không xuất trình được sự vụ lịnh. Khi được hỏi về chủng loại nội dung hàng vận chuyển, Đại úy Nhiều cho rằng đây là linh kiện thiết bị truyền tin. Theo quy định thời ấy, tuyệt đối cấm việc vận chuyển thiết bị truyền tin vào ban đêm nên lời khai này càng vô lý, anh Sang quyết định cho kiểm tra hàng và phát hiện ra toàn bộ lô hàng là rượu và thuốc lá ngoại. Thấy đã đủ cơ sở, anh Sang yêu cầu Địa Phương quân bắt tạm giữ toàn bộ hàng và những người áp tải kễ cả đại úy Nhiều chờ sáng mai sẽ lập biên bản điều tra.
Sau khi đã bắt giữ đoàn xe, anh Sang mới gọi điện báo cáo cho Đại tá Lê Văn Năm, tỉnh trưởng Long An và Thiếu tá Đức tiểu đoàn phó tiểu đoàn 3 quân cảnh. Chi tiết Đặng Văn Nhâm đã viết “Khi đó viên sĩ quan chi khu trưởng Gò Đen mới đánh điện báo cáo cho đại tá Lê Văn Năm tiểu khu trưởng Long An. Mặc dù trời đã tối sẫm, rất dễ bị quân du kích CS phục kích dọc đường, nhưng đại tá Lê Văn Năm vẫn phải cấp tốc lên xe cùng đoàn quân hộ tống tuỳ tùng chạy thẳng đến chi khu Gò Đen, để chứng kiến tại chỗ sự việc” là hoàn toàn không có thật. Anh Sang còn nhớ một chi tiết nhỏ nhưng hết sức quan trọng là đại tá Năm sau khi nghe anh điện báo, ông không có ý kiến gì. Khi ngừng đàm thoại và ông Năm nói lầm thầm (do gác ống nghe không sát) mà anh vô tình nghe được “ĐM. Sao tụi nó lại đi giờ này?”. Từ câu nói này cho thấy ông Năm có biết về đoàn xe và lẽ ra nó phải đi vào giờ khác. Ông Năm rõ ràng có liên quan đến đoàn xe này nhưng trước dấu hiệu sai phạm rõ ràng đã không dám lên tiếng bênh, làm gì có việc chạy xe đến hiện trường.Chi tiết này có liên quan đến chi tiết quan trọng khác dẫn đến kỷ luật ông Năm sẽ nói ở phần sau.
Riêng Thiếu tá Đức tiểu đoàn phó tiểu đoàn 3 quân cảnh, văn phòng trú đóng ở tận Bộ tư lệnh quân đoàn 3 Biên Hòa nhưng đến 1 giờ đêm đã có mặt tại Trạm quân cảnh của anh Sang để nắm chi tiết vụ việc. Đến lúc này, anh Sang mới cho người mời trung úy Thọ trưởng trạm (không nhằm phiên trực nên nghĩ ở nhà) đến làm việc với Thiếu Tá Đức.
Tương tự, một đoạn khác viết về diễn tiến bắt giữ đoàn xe của Đặng Văn Nhâm cũng không phù hợp thực tế “Trong thời gian chờ đại tá Lê Văn Năm đến thị chứng, viên sĩ quan chỉ huy chi khu Gò Đen vẫn chưa biết đoàn quân xa này chở những vật liệu gì, đang được che kín bít bùng. Nhưng mấy binh sĩ dưới quyền của ông ta, vì tò mò, đã mở hí tấm bạt ra xem. Tình cờ họ thấy trong xe chứa toàn rượu, bánh, kẹo, vải, đồng hồ và các loại hàng xa xỉ đắt tiền khác, mắt họ hoa lên. Họ liền nảy lòng tham, mở mấy tấm bạt ra, xúm nhau vào ăn cắp. Lúc đầu chỉ có vài người lính làm phận sự canh gác ăn cắp hàng lậu, nhưng chỉ trong một thoáng, tin giật gân, ngon lành ấy loan truyền rộng rãi trong đám gia đình binh sĩ, cư ngụ sát lề đường. Thế là cả bầy đàn bà, con nít và lính tráng trong trại gia binh ùa nhau ra hôi đồ lậu. Lợi dụng tình hình rối loạn đó, bọn người mặc thường phục, đi theo đoàn xe chở đồ lậu, liền nương theo bóng tối, rủ nhau chuồn êm, và biệt dạng hết trọi. Cảnh hỗn loạn đó chỉ chấm dứt khi đại tá Lê Văn Năm và đoàn tuỳ tùng đã đến nơi. Lúc bấy giờ đã vào khoảng 8 hay 9 giờ tối rồi.”
Theo lời kể của anh Sang, việc khám xét kiểm tra hàng hóa đã thực hiện trước lệnh bắt. Đại tá Năm hoàn toàn không đến hiện trường và cũng không có vai trò gì trong vụ việc bắt người, hàng hóa. Việc kiểm tra và giữ hàng được thực hiện trong căn cứ của tiểu đoàn 332 địa phương quân nên không thể có chuyện người dân chung quanh đến hôi của. Đây cũng không phải là việc làm bộc phát do tò mò mà là kiểm tra để có cơ sớ bắt giữ đoàn xe và người.
Thực chất, lượng hàng lậu có bị thất thoát khoảng 30% so với khối lượng khai báo của những người áp tải do hai nguyên nhân: binh sĩ của tiểu đoàn 332 có “chôm chỉa” một phần, một phần khác đổ vỡ trong quá trình kiểm tra, bốc xếp. Đây chính là nguyên nhân mà Thiếu tá Bé Tiểu đoàn rưởng 332 bị tòa án Mặt trận cách chức còn binh nhì sau này.
Hoàn toàn không có, “bọn người mặc thường phục, đi theo đoàn xe chở đồ lậu, liền nương theo bóng tối, rủ nhau chuồn êm, và biệt dạng hết trọi”. Theo anh Sang, hơn hai mưoi người mặc đồ dân sự đi theo đoàn xe, chủ yếu là những người bốc xếp mà đa số là lao công đào binh đều bị bắt giữ, trong đó có một cựu trung sĩ quân cảnh đồng khóa với anh Sang, thượng sĩ Hảo huấn luyện viên bắn súng lục là thầy cũ của anh Sang ở trường quân cảnh. Tất cả đều bị bắt giam nghiêm túc.
Diễn tiến của vụ bắt buôn lậu còi hụ khác hẳn với những điều Đặng Văn Nhâm đã viết. Nhâm bịa rằng hạ sĩ quan quân cảnh bắt đoàn xe đã bị bắt giam đưa lên Pleuku và bị bắn chết nhưng thực tế là trung sĩ nhất Nguyễn Văn Sang được thăng đặc cách lên thượng sĩ và rút về làm Xử lý thường vụ Tiểu đoàn ở tại Biên Hòa và đến nay vẫn còn đang sống khỏe. Có một sự thật hết sức quan trọng mà Đặng Văn Nhâm không hề biết là chiếc xe Jeep trắng dân sự đã bỏ trốn ngay trong giai đoạn đoàn xe bị chặn. Theo lời khai của những người bị bắt thì chiếc xe Jeep này có mang theo sáu chục triệu đồng tiền mặt và hàng chục ký bạch phiến. Theo tỉ giá thời đó vàng chỉ có hơn sáu ngàn đồng/lượng, đây là số tiền rất lớn và lượng bạch phiến rất lớn lên đến hàng chục ngàn cây vàng.
Vấn đề quan trọng của vụ án này là trong điều kiện luật pháp rõ ràng minh bạch thì chỉ cần một trung sĩ nhất quân cảnh cũng có thể chặn đứng một đường dây buôn lậu quy mô lớn cấp quốc gia có nhiều tướng tá tham gia. Với những biểu hiện vi phạm về hình thức của đoàn xe, chạy không đúng quy định, ngoài giờ hoạt động, một trung sĩ nhất đương nhiệm có quyền bắt giữ, không cần phải báo cáo ai.
Nguồn: KBCHN.net